Người sử dụng lao động là ai?

Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường có sự tham gia của các thành phần kinh tế, bên sử dụng lao động (hay người sử dụng lao động), chủ thể của quan hệ pháp luật lao động bao gồm toàn bộ các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần, các hợp tác xã, các cơ quan tổ chức nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam, các cá nhân và hộ gia đình. Theo khoản 2 Điều 3 Bộ luật lao động năm 2019: “ Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng người lao động làm việc cho mình theo thỏa thuận; trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”.

Theo đó, các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã trên lãnh thổ Việt Nam muốn tuyển dụng lao động phải có tư cách pháp nhân theo pháp luật Việt Nam; đây là điều kiện để Nhà nước thừa nhận năng lực pháp luật lao động của các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức nói trên. Nội dung của năng lực pháp luật này thể hiện ở quyền được tuyển chọn và sử dụng lao động của họ, nó xuất hiện từ thời điểm Nhà nước thừa nhận hoặc thành lập các pháp nhân đó. Các pháp nhân thường thể hiện năng lực pháp luật lao động thông qua người đại diện của họ. Đối với doanh nghiệp phải được phép kinh doanh theo pháp luật hiện hành.

Đối với các cá nhân và hộ gia đình nếu có nhu cầu cũng được phép tuyển dụng lao động. Khi tuyển dụng, cá nhân hay người tuyển dụng lao động cho hộ gia đình phải đủ 18 tuổi trở lên, nhận thức bình thường, có nơi cư trú hợp pháp, có khả năng đảm bảo tiền công và điều kiện lao động cho người lao động.

Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động

Nội dung của quan hệ pháp luật lao động là quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ. Các chủ thể đều có những quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định; quyền của chủ thể này bao giờ cũng tương ứng với nghĩa vụ của chủ thể kia tạo thành mối liên hệ pháp lý thống nhất trong một quan hệ pháp luật lao động. Các bên phải thực hiện, tôn trọng những quyền và nghĩa vụ nhất định mà pháp luật quy định để đảm bảo trật tự, lợi ích xã hội, bảo đảm môi trường lao động và môi trường sống.

Quyền của người sử dụng lao động

Quyền của người sử dụng lao động được quy định tại khoản 1 Điều 6 Bộ luật lao động năm 2019; cụ thể:

- Tuyển dụng, bố trí, quản lý, điều hành, giám sát lao động; khen thưởng và xử lý vi phạm kỷ luật lao động;

- Thành lập, gia nhập, hoạt động trong tổ chức đại diện người sử dụng lao động, tổ chức nghề nghiệp và tổ chức khác theo quy định của pháp luật;

- Yêu cầu tổ chức đại diện người lao động thương lượng với mục đích ký kết thỏa ước lao động tập thể; tham gia giải quyết tranh chấp lao động, đình công; đối thoại, trao đổi với tổ chức đại diện người lao động về các vấn đề trong quan hệ lao động, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người lao động;

- Đóng cửa tạm thời nơi làm việc;

- Các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Nghĩa vụ của người sử dụng lao động

Nghĩa vụ của người sử dụng lao động được quy định tại khoản 2 Điều 6 Bộ luật lao động năm 2019, cụ thể:

- Thực hiện hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và thỏa thuận hợp pháp khác; tôn trọng danh dự, nhân phẩm của người lao động;

- Thiết lập cơ chế và thực hiện đối thoại, trao đổi với người lao động và tổ chức đại diện người lao động; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở tại nơi làm việc;

- Đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nhằm duy trì, chuyển đổi nghề nghiệp, việc làm cho người lao động;

- Thực hiện quy định của pháp luật về lao động, việc làm, giáo dục nghề nghiệp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và an toàn, vệ sinh lao động; xây dựng và thực hiện các giải pháp phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc;

- Tham gia phát triển tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia, đánh giá, công nhận kỹ năng nghề cho người lao động.

Những căn cứ làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ pháp luật lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động

Sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật lao động

Đây là sự kiện người lao động vào làm việc tại các đơn vị sử dụng lao động. Sự kiện này có thể xuất hiện trên cơ sở những hình thức tuyển dụng lao động (hành vi giao kết hợp đồng lao động) khác nhau, song bao giờ cũng thể hiện ý chí của hai bên: người lao động có nhu cầu về việc làm và muốn làm việc tại đơn vị, người sử dụng lao động có nhu cầu về nhân lực và đồng ý tuyển nhận người lao động. Điều đó thể hiện, quan hệ pháp luật lao động phải được xác lập trên cơ sở tự do và tự nguyện của các chủ thể. Bộ luật lao động không thừa nhận những quan hệ lao động do các bên ép buộc hoặc lừa dối nhau và càng không thừa nhận ý chí của người thứ ba can thiệp vào việc xác lập quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động.

Sự kiện pháp lý làm thay đổi quan hệ pháp luật lao động

Đây là những sự kiện làm thay đổi quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật lao động đã xác lập. Sự kiện này có thể xảy ra do ý chí của cả hai bên chủ thể, có thể do ý chí của người sử dụng lao động hoặc có thể do ý chí của người thứ ba ngoài quan hệ pháp luật lao động.

Sự kiện pháp lý làm chấm dứt quan hệ pháp luật lao động

Trường hợp này bao gồm cả những sự biến pháp lý và những sự kiện xảy ra do ý chí của con người.

Sự biến pháp lý làm chấm dứt quan hệ pháp luật lao động là trường hợp người lao động chết. Trong trường hợp này, quan hệ pháp luật lao động đương nhiên chấm dứt.

Còn lại, phần lớn các quan hệ pháp luật lao động chấm dứt do những sự kiện mang ý chí của con người như người lao động xin thôi việc, người sử dụng lao động sa thải người lao động,…

Last updated